Theo kết quả khảo sát mới đây của Liên đoàn Lao động Hà Nội, từ năm 2012-2014, việc tuân thủ pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Do đó, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp vẫn là mối quan tâm nhất đối với khối doanh nghiệp trong các lĩnh vực điện, giao thông, xây dựng và trong khu công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa giải quyết triệt để những chế độ lao động thỏa đáng cho người lao động cũng như người lao động chưa hiểu biết về luật tai nạn lao động để hoàn thành đúng nghĩa vụ của mình.
Ảnh: Minh họa
Dưới đây, Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng – Đoàn luật sư Hà Nội chia sẻ những vấn đề cụ thể về việc giải quyết chế độ khi xảy ra tai nạn lao động như sau:
Theo khoản 1, khoản 2 Điều 12 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động thì, tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động, kể cả trong thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tấm rửa, cho con bú, đi vệ sinh, chuẩn bị và kết thúc công việc tại nơi làm việc.
Tai nạn được coi là tai nạn lao động là tai nạn xảy ra tại địa điểm và thời gian hợp lý khi người lao động đi từ nơi ở đến nơi làm việc, từ nơi làm việc về nơi ở.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động
Điều 144 Bộ Luật Lao động năm 2012 (BLLĐ) quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:
– Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.
– Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.
– Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Điều 145 của Bộ luật này.
Quyền của người lao động bị tai nạn lao động
Tại Điều 145 của Bộ luật này quy định quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:
– Người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật BHXH.
– Người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa đóng BHXH cho cơ quan BHXH, thì được người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật BHXH.
Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên.
– Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau:
+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo HĐLĐ nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo HĐLĐ nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;
+ Ít nhất 30 tháng tiền lương theo HĐLĐ cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.
– Trường hợp do lỗi của người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 3 Điều này.
Trả lời thắc mắc của ông Hồng Hải, ông bị tai nạn giao thông trên đường đi làm từ nhà đến công ty, giám định suy giảm khả năng lao động 10%. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP, thì trường hợp tai nạn của ông Hải được coi là tai nạn lao động.
Căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 145 BLLĐ, nếu tai nạn này không do lỗi của ông Hải và tai nạn làm ông bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10% thì, ông được công ty bồi thường với mức ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo HĐLĐ.
Căn cứ khoản 4, Điều 145 BLLĐ, nếu tai nạn do lỗi của ông Hải thì, cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức nêu trên, tức là ông Hải được Công ty trợ cấp ít nhất 0,6 tháng lương.
Việc xác định tai nạn không có lỗi, hay do lỗi của người lao động căn cứ vào Biên bản Điều tra tai nạn lao động theo mẫu quy định hiện hành. Trường hợp bị tai nạn giao thông được xác định là tai nạn lao động thì có thêm bản sao Biên bản tai nạn giao thông.
Căn cứ khoản 1, Điều 144 BLLĐ, Công ty có trách nhiệm thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người bị tai nạn lao động có tham gia bảo hiểm y tế.
Về chi phí giám định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 6, khoản 1 và khoản 2 Điều 13 Thông tư số 07/2010/TT-BYT ngày 5/4/2010 và Điều 1 Thông tư số 39/2012/TT-BYT ngày 5/6/2012 của Bộ Y tế thì chi phí giám định y khoa lần đầu do người sử dụng lao động chi trả, chi phí giám định thương tật tái phát do cơ quan BHXH chi trả.
Bài viết tham khảo: Thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp